Trong bối cảnh căng thẳng
ngày càng gia tăng giữa Nga, Mỹ và các nước thành viên Tổ chức
Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) hiện nay, nhiều câu hỏi đang được dư luận hết
sức quan tâm, đó là: bản chất của cuộc xung đột này là gì, tại sao lại xảy ra vào
thời điểm hiện nay và chiều hướng của cuộc khủng hoảng ra sao?
BẢN
CHẤT VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG
Bản
chất của cuộc khủng hoảng
Vấn đề khủng hoảng Ukraine
hiện nay bắt nguồn từ cuộc chính biến xảy vào đầu năm 2014(1), kéo
dài đến nay đã 8 năm, vẫn chưa chấm dứt và ngày càng trở nên phức tạp. Đây
không chỉ đơn giản là cuộc xung đột giữa lực lượng ly khai với sự hậu thuẫn của
Nga và Chính phủ Ukraine ở miền Đông (Donbass) nước này, mà còn là cuộc xung
đột giữa các nước lớn ở khu vực châu Âu - Đại Tây Dương, như Nga, Mỹ, NATO;
thậm chí, liên quan tới các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Chiến sự giữa Nga và
Ukraine năm 2022 có quy mô lớn hơn so với cuộc khủng hoảng năm 2014 và được xem
là cuộc xung đột lớn nhất kể từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc, xuất phát từ một
số lý do: Một là, cục diện chung trên thế giới đã thay đổi, với
việc Mỹ theo đuổi các chính sách “Nước Mỹ trên hết”, “Nước Mỹ
trở lại”; Trung Quốc thực hiện chiến lược “phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa”,
trong khi Nga hiện chưa có một chiến lược mang tính toàn cầu. Hai là,
trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, nước Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Nga
V. Putin đã triển khai thành công, có hiệu quả nhiều chính sách cả về đối nội
và đối ngoại, qua đó ổn định được hệ thống chính trị nội bộ, củng cố vị thế, mở
rộng ảnh hưởng quốc tế và gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia; tuy nhiên, hiện
nay, trong tam giác quan hệ Mỹ - Trung Quốc - Nga, sự phục hồi ảnh hưởng của Nga vẫn chưa thể làm thay đổi cục diện chính trị thế giới. Ba
là, đây là thời khắc hết sức quan trọng, được xem là một trong những thử
thách đối với Tổng thống Nga V. Putin, khi chỉ còn chưa đầy hai năm là tới cuộc
bầu cử Tổng thống Nga năm 2024, để tiếp tục từng bước khôi phục vị thế đất
nước, giành lại vị trí quan trọng trên vũ đài quốc tế, chuyển từ cường quốc khu
vực hướng đến tầm cỡ cường quốc toàn cầu.
Nguyên
nhân của cuộc khủng hoảng
Nguyên
nhân sâu xa. Sau Chiến tranh lạnh, thế giới - nhất
là khu vực châu Âu - Đại Tây Dương - tưởng chừng sẽ có được một nền hòa bình
lâu dài và không còn đối đầu, nhưng ngược lại đã nhanh chóng chứng kiến những
căng thẳng leo thang trong quan hệ giữa hai cường quốc quân sự hàng đầu thế
giới là Mỹ và Nga, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Mối quan hệ cạnh tranh
nhiều hơn hợp tác, đôi khi đứng trước bờ vực đối đầu này đã chi phối mạnh mẽ
việc tập hợp lực lượng mới, đồng thời tác động không nhỏ đến
chiều hướng quan hệ hợp tác quốc phòng - an ninh trên thế giới, nhất là các quốc gia tầm trung và có
vị trí địa - chiến lược quan trọng như Ukraine.
Bên cạnh đó, quan hệ giữa
Nga và NATO cũng lâm vào khủng hoảng. Sau sự kiện Nga sáp nhập bán đảo Crimea
(năm 2014) - nơi có quân cảng chiến lược Sevastopol - NATO đã đình chỉ quan hệ
“đối tác vì hòa bình” với Nga, coi Nga là mối đe dọa đối với an ninh khu vực
châu Âu. NATO cho rằng, Nga “vi phạm luật pháp quốc tế” khi trực tiếp hoặc gián
tiếp hỗ trợ lực lượng ly khai ở Ukraine,
sáp nhập lãnh thổ của một nước có chủ quyền vào Nga. NATO tăng cường trợ
giúp Ukraine về huấn luyện và cung cấp các trang thiết bị vũ khí hiện đại; đe
dọa thắt chặt các biện pháp cấm vận kinh tế ngặt nghèo đối với Nga trong trường
hợp Nga tấn công Ukraine; đồng thời, kêu gọi Nga “xuống thang” và triển khai
hàng loạt bước đi để ngăn chặn Nga tấn công Ukraine.
Thế nhưng, điều bất ngờ nhất đối với NATO kể từ sau năm 2014 là Nga đã giành quyền chủ động hành
động, cũng như ngày càng cảnh giác và quyết đoán hơn trước bất kỳ động thái nào
của NATO. Nga coi việc “NATO Đông tiến” là đường lối lâu dài, là thách thức từ
trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng Ukraine, đào sâu sự mất cân bằng
chiến lược Nga - NATO. Nga quan ngại việc không có thành viên NATO nào phê
chuẩn Hiệp ước về vũ khí thông thường châu Âu (CFE). Theo quan điểm của Nga, tình hình này còn tồi tệ hơn do Mỹ bố trí hệ thống tên lửa phòng thủ tại Ba Lan và Séc, vi phạm sự ổn định chiến lược. Nga quy
kết NATO thúc đẩy cuộc “cách mạng màu” bên trong không gian hậu Xô-viết. Cuộc
khủng hoảng Ukraine
đã giáng một đòn mạnh vào hầu hết các cơ chế hợp tác giữa Nga và
NATO, từ đấu tranh chống buôn lậu ma túy cho đến chống khủng bố... Các hoạt
động quân sự (tập trận, tăng thêm quân, chiến tranh thông tin…) được Nga và
NATO triển khai ở mức mạnh nhất, càng khoét sâu thêm căng thẳng giữa hai bên.
Hai bên đều xem nhau như mối đe dọa đầu tiên và thi hành các biện pháp thích
hợp. Các vụ va chạm trên không và trên biển, khả năng khó phá băng khủng hoảng
tại vùng Donbass cùng nhiều vấn đề khác đã khiến mối quan hệ Nga - NATO tiếp tục leo thang căng thẳng kèm
theo nhiều rủi ro xảy ra xung đột bùng phát tại chỗ (2).
Như vậy,
có thể thấy nổi lên hai mâu thuẫn đối kháng khó giải quyết: Một là, mâu
thuẫn giữa việc Nga sáp nhập bán đảo Crimea, kiểm soát cũng như khống chế các
hoạt động quân sự và dân sự của Ukraine ở Biển Đen với việc Mỹ cùng đồng minh
muốn ủng hộ Ukraine lấy lại bán đảo này, đẩy hạm đội Biển Đen của Nga ra khỏi
Biển Đen. Hai là, mâu thuẫn giữa Nga và Mỹ cùng đồng minh
NATO. Cụ thể, Nga muốn giành lại vị trí quan trọng trên vũ đài quốc tế, vươn
lên tầm cường quốc toàn cầu, khiến thế giới phải thay đổi cách nhìn về vị thế quốc tế mới của
Nga sau khi Liên Xô sụp đổ. Trong khi đó, Mỹ và NATO muốn đưa Ukraine vào quỹ
đạo kiểm soát của họ và việc “phương Tây hóa Ukraine” sẽ có tác dụng giúp
thúc đẩy “cách mạng màu” xảy ra bên trong chính nước Nga, góp phần làm suy giảm
sức mạnh tổng hợp của Nga.
Nguyên
nhân trực tiếp. Thứ nhất, cuộc xung đột giữa chính quyền Ukraine
và lực lượng ly khai Donbass (bao gồm DPR và LPR) do Nga hậu
thuẫn gia tăng, nhất là sau tháng 10/2021, khiến tiến trình đàm phán hòa bình theo
Thỏa thuận Minsk 2 - giải pháp duy nhất đối với cuộc khủng hoảng chính trị
Ukraine - khó đạt được kết quả. Thứ hai, Mỹ và NATO không chỉ
chuyển giao vũ khí cho Ukraine, nhất là sau giai đoạn Mỹ rút quân khỏi
Afghanistan (tháng 9/2021), khi Mỹ và đồng minh còn dư nhiều
vũ khí, đạn dược (được dự kiến chuyển giao cho chính quyền thân Mỹ ở
Afghanistan), mà còn triển khai tên lửa tầm trung và lực lượng
quân sự trên lãnh
thổ NATO - Đông Âu hướng tới Nga. Thứ ba, đáp lại những động
thái đó, Nga đã triển khai trên 100.000 quân dọc biên giới trên bộ giáp với
Ukraine, khu vực bán đảo Crimea, đồng thời tập trung quân đội ở nước láng giềng
Ukraine là Belarus với danh nghĩa tập trận chung, cũng như phái
6 tàu chiến hiện đại tiến vào Biển Đen. Thứ tư, Mỹ và đồng
minh NATO không đáp ứng bản đề nghị an ninh gồm 8 điểm của Nga gửi tới Mỹ và
NATO vào giữa tháng 12/2021, với bốn nội dung cốt lõi: 1) NATO không kết nạp
Ukraine và các nước thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập
(SNG); 2) Loại bỏ vũ khí hạt nhân của Mỹ ra khỏi châu Âu; 3) NATO rút toàn
bộ quân đội hoặc vũ khí được triển khai tới các quốc gia tham gia liên minh về
thời điểm trước năm 1997, bao gồm các nước như Ba Lan, Estonia, Lithuania,
Latvia; 4) Không tiến hành tập trận tại các nước gần lãnh thổ của Nga.
Những điều này được cho là
đã đẩy căng thẳng giữa Nga và Mỹ cùng đồng minh NATO lên đỉnh điểm thành cuộc
xung đột quân sự mà chiến trường là Ukraine.
NHỮNG
TOAN TÍNH CỦA CÁC BÊN
Đối với
Nga, “chiến dịch quân sự đặc biệt” năm 2022 được
xem là “trận đánh chiến lược” của Tổng thống Nga V. Putin, do đó Nga chấp nhận
đối mặt với nhiều vấn đề, bao gồm cả việc sẵn sàng chuẩn bị đối phó với các
lệnh trừng phạt kinh tế ngặt nghèo, kéo dài của Mỹ và phương Tây.
Nga cũng hiểu rất rõ, chiến tranh sẽ tạo thêm một gánh nặng mới đối với nền kinh tế
Nga vốn bị ảnh hưởng nhiều do Nga là một trong những nước
chịu tác động nặng nề nhất của đại dịch COVID-19. Tuy nhiên, Chính phủ Nga đã đưa ra thông báo, Nga có
đủ nguồn lực tài chính cho sự ổn định của hệ thống trước các lệnh trừng phạt và
các mối đe dọa từ bên ngoài.
Mục tiêu của Nga khi phát
động chiến dịch quân sự lần này, bao gồm: 1) Ngăn chặn phương Tây giành lại bán
đảo Crimea; 2) Tạo sức ép đối với phương Tây và Ukraine thực hiện Thỏa thuận
Minsk 2 theo cách của Nga; 3) Cơ cấu lại an ninh khu vực châu Âu, trong đó
an ninh của Nga phải được tôn trọng và bảo đảm; 4) Thúc đẩy Đức và Liên minh
châu Âu (EU) phê chuẩn dự án “Dòng chảy phương Bắc 2”; 5) Củng cố nhà nước liên minh
giữa Nga và Belarus vừa được khởi động sau 20 năm không có nhiều tiến
triển.
Theo đánh giá chung, hiện
nay, Nga có nhiều thuận lợi trong việc mở chiến dịch quân sự: 1) Mặc dù bị ảnh
hưởng nghiêm trọng từ các lệnh trừng phạt của Mỹ và phương
Tây, song kinh tế Nga đã tăng cường được tính tự chủ, chủ động thích ứng, vượt qua thời
điểm khó khăn nhất và đang trên đà hồi phục. Tính đến tháng 8/2021, Quỹ Tài sản
quốc gia Nga có nguồn vốn vào khoảng 185 tỷ USD và dự trữ ngoại tệ ở mức 615 tỷ
USD. Bên cạnh đó, Nga cũng được dự báo là quốc gia sẽ hồi phục nhanh hơn các nước lớn khác sau đại dịch COVID-19 do đã thích nghi tốt với tình
trạng bị cấm vận, cô lập từ năm 2014 đến nay; 2) Căng thẳng leo thang đẩy giá
dầu mỏ tăng cao, đang tạo lợi thế cho Nga; 3) Cán cân quyền lực và cục diện thế
giới tiếp tục có sự dịch chuyển nhanh từ Tây sang Đông, nhất là cạnh tranh
chiến lược Mỹ - Trung Quốc gia tăng mạnh mẽ cùng với việc Nga
đẩy mạnh chính sách đối ngoại ưu tiên hơn trong quan hệ với Trung Quốc, đã góp phần củng cố vị thế
của Nga với vai trò là một trong những nhân tố “cân bằng chiến lược” quan trọng hàng đầu mà cả Mỹ và Trung Quốc đều cần tranh thủ; 4) Cuộc
khủng hoảng Ukraine buộc các nước phải quay trở lại Thỏa thuận Minsk 2; 5) Cuộc
khủng hoảng Ukraine cũng tiếp tục làm bộc lộ rõ những mâu thuẫn trong nội bộ NATO và EU hiện
nay (3); đồng thời, tạo sức ép buộc Mỹ và phương Tây phải đàm phán với Nga về những vấn đề lớn hơn liên quan đến an
ninh châu Âu.
Trên cơ sở đó, Tổng thống Nga V. Putin đã triển khai được 5 bước đi lớn: 1) Gia tăng sự hiện diện quân sự
tại Ukraine và gây ảnh hưởng lên các nước vùng Baltic; 2) Phô trương
được sức mạnh quân sự cùng một lúc trên tất cả các mặt trận; 3) Cộng hưởng với
Trung Quốc trong cuộc đua với Mỹ tiến tới vị trí trung tâm của vũ đài quốc tế;
4) Gửi tới Mỹ và NATO bản đề nghị an ninh gồm 8 điểm với các điều kiện tiên
quyết, trong đó nêu rõ những quan ngại về an ninh của Nga; 5) Đẩy mạnh các hoạt động
ngoại giao con thoi để trao đổi với các nước. Những động thái này góp phần bảo
vệ và củng cố thể chế của nước Nga, nhất là vị thế, uy tín của Tổng
thống Nga V. Putin. Trong khi đó, thực tế cho thấy, các nước phương Tây và NATO
thiếu sự quyết đoán khi đối mặt với những mối đe dọa hiện hữu.
Đối với
Mỹ, chính quyền của Tổng thống Mỹ Joe Biden đang gặp
không ít khó khăn, thách thức cả trong nước và ngoài nước. Ở
trong nước, chính trị nội bộ Mỹ mâu thuẫn và chia rẽ sâu sắc, nhất là sau cuộc
bạo loạn xảy ra ở tòa nhà Quốc hội vào ngày 6/1/2021 (4). Bên cạnh
đó, dịch bệnh COVID-19 tiếp tục kéo dài và diễn biến phức tạp, tác động đến mọi
mặt đời sống của nước Mỹ. Ở ngoài nước, mặc dù vẫn là siêu
cường số 1 thế giới với sức mạnh vượt trội song khoảng cách sức mạnh của Mỹ so
với Trung Quốc đang tiếp tục bị thu hẹp. Nhiều lợi ích chiến lược của Mỹ đang
bị thách thức. Hệ thống đồng minh, đối tác có sự rạn nứt nhất định sau nhiệm kỳ
của chính quyền Tổng thống Mỹ Donal Trump khiến các nỗ lực của Mỹ trong xử lý những vấn đề toàn cầu gặp
nhiều khó khăn…
Tuy nhiên, việc thúc đẩy
leo thang một cuộc khủng hoảng mới được cho là sẽ giúp Mỹ trở lại vị thế chi
phối và vai trò lãnh đạo thế giới, ngăn chặn, đối phó với thách thức gia tăng
từ các đối thủ chiến lược và các thách thức an ninh khác; khôi phục và củng cố
hệ thống đồng minh, đối tác; định hình trật tự thế giới mới dựa trên các nguyên
tắc, chuẩn mực, giá trị chung.
Mục tiêu của Mỹ trong cuộc
khủng hoảng chính trị Ukraine là: 1) Làm suy giảm sức mạnh tổng hợp quốc gia
của Nga; 2) “Phương Tây hóa Ukraine”, lôi kéo các nước có xu
hướng thân Nga “đoạn tuyệt” với Nga và dựa hẳn vào Mỹ và phương Tây; 3) Củng cố
mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương; 4) Tranh thủ cuộc khủng hoảng chính trị tại
Ukraine leo thang để khiến các nước châu Âu phụ thuộc hơn nữa vào Mỹ về mặt
quân sự, an ninh, kinh tế và năng lượng; 5) Có lý do chính đáng để ngăn chặn Đức phê duyệt dự
án “Dòng chảy phương Bắc 2”.
Đối với
Ukraine, nước này vốn được coi là “nạn nhân” trong
cuộc khủng hoảng chính trị hiện nay, nhưng lại mong muốn gia nhập
NATO và EU. Ukraine cho rằng, việc gia nhập NATO “không gây ảnh hưởng đến an
ninh của Nga”. Chính vì vậy, ngay sau khi lên nắm quyền, chính quyền của Tổng thống
Ukraine Volodymyr Zelensky tiếp tục: 1) Khẳng định quyết tâm gia nhập NATO và
đẩy mạnh cải cách lực lượng vũ trang theo tiêu chuẩn NATO; 2) Tăng cường củng
cố tiềm lực quốc phòng - an ninh, với việc gia tăng chi phí và đẩy mạnh thử
nghiệm các loại tên lửa mới (5); 3) Duy trì các cuộc tập trận
quân sự chung với NATO nhằm nâng cao khả năng tác chiến hiệp đồng giữa quân đội
Ukraine với quân đội các nước thành viên NATO; 4) Tiến hành sửa chữa, cải tiến
và hiện đại hóa các loại vũ khí, khí tài cũ để trang bị cho lực lượng quân đội;
5) Mua vũ khí sát thương của các nước phương Tây.
Trong khi đó, NATO lại tỏ
ra khá thận trọng trước viễn cảnh Ukraine gia nhập tổ chức này. Theo
Tổng Thư ký NATO Jens Stoltenberg, Ukraine đã xin gia nhập NATO từ năm 2008
và NATO đang xem xét, chưa kết nạp Ukraine, với lý do theo Điều 6 Hiến chương
NATO, về mặt kỹ thuật, Ukraine hiện chưa đủ điều kiện để gia nhập NATO (6).
Tuy nhiên, cũng như Mỹ và các nước phương Tây, NATO cho rằng,
tất cả quốc gia độc lập, có chủ quyền như Ukraine, có thể xin gia nhập không
chỉ NATO mà bất kỳ tổ chức kinh tế, chính trị, quân sự hay ngoại giao nào phù
hợp với lợi ích quốc gia của Ukraine.
Thế nhưng, theo Điều 5 Hiến chương NATO - một nguyên tắc sáng lập của NATO về phòng thủ tập thể - bất kỳ
cuộc tấn công vũ trang nào nhằm vào một hay một số thành viên của liên minh đều
được coi là cuộc tấn công vào toàn bộ liên minh… Mỗi thành viên, với quyền tự vệ
cá thể hay tập thể chính đáng theo Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc, sẽ hỗ trợ
một bên hoặc các bên. Như vậy,
nếu Ukraine
trở thành một phần của NATO, các nước thành viên có nguy cơ phải tham gia đối
đầu trực tiếp với Nga. Đây là điều mà dường như không một quốc gia nào trong
NATO mong muốn.
Triển khai chính sách đối
ngoại thân phương Tây, Ukraine đặt mục tiêu có thể gia nhập NATO và EU, giúp
Ukraine bảo toàn lãnh thổ, lấy lại bán đảo Crimea và các vùng ly khai ở khu vực
Donbass. Tuy nhiên, cả Ukraine và phương Tây đều bất ngờ khi
cho rằng, khả năng Nga sẽ tiến hành “một cuộc chiến tranh toàn diện” như hiện
nay là không cao.
DỰ BÁO
CHIỀU HƯỚNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG
Trước
quan ngại Nga sẽ phát động “một cuộc chiến tranh tổng lực” tấn công, cuối tháng
10/2021, Ukraine đẩy mạnh triển khai một lực lượng lớn quân đội dọc khu vực
giáp Donbass khiến Nga tin rằng Ukraine sắp mở cuộc tấn công quân sự chống lại
lực lượng thân Nga tại khu vực này. Cùng với đó, phản hồi của Mỹ và NATO liên
quan đến các đề xuất an ninh của Nga được Nga cho là không thỏa đáng và đang
“bị xem nhẹ”, trở thành “giọt nước tràn ly” khiến Nga phản ứng quyết liệt hơn.
Ngày 22/2/2022, Nga chính
thức ra tuyên bố xác nhận biên giới của hai vùng lãnh thổ ly khai Ukraine, bao
gồm DPR và LPR mà Nga đã công nhận độc lập trước đó. Tiếp đó, ngày 24/2/2022,
Tổng thống Nga V. Putin tuyên bố bắt đầu một “chiến dịch quân sự đặc biệt” nhằm
“phi quân sự hóa” Ukraine và bảo vệ người dân ở khu vực Donbass.
Nga khẳng định chỉ nhắm mục tiêu vào kết cấu hạ tầng quân sự, không tấn công
kết cấu hạ tầng dân cư, đồng thời cảnh báo NATO không can thiệp vào hành động
của Nga. Tổng thống Nga V. Putin nhấn mạnh: “Tình thế khiến chúng tôi phải đưa ra những hành
động quyết định và ngay lập tức” (7).
Hiện nay, nhiều nhà phân
tích cho rằng, có khả năng Nga sẽ kiểm soát Thủ đô Kiev
và thành lập một chính phủ thân Nga để điều hành đất nước Ukraine. Đồng thời, lực lượng gìn
giữ hòa bình của Tổ chức Hiệp ước an ninh tập thể (CSTO) do Nga dẫn đầu sẽ
được triển khai trên toàn lãnh thổ Ukraine
để trợ giúp chính quyền mới của Ukraine.
Đây sẽ là cơ sở để Nga có thể thiết lập một liên minh
mới, bao gồm Nga, Belarus và Ukraine, hiện thực hóa một phần mục tiêu trở thành
cường quốc trên thế giới, cũng như xác lập lại cấu trúc an ninh châu Âu vốn
đang do Mỹ và phương Tây chi phối. Tuy nhiên, một số nhà phân tích cho rằng, để
hiện thực hóa mục tiêu đó trong bối cảnh cán cân quyền lực và tình hình thế giới tiếp tục
có sự dịch chuyển nhanh, phức tạp, khó dự báo như hiện
nay, được cho là điều không dễ.
Nhìn chung, những tham
vọng chính trị, những ý đồ, tính toán từng bước của các bên được định hình rõ
nét hơn trong chính bối cảnh cuộc xung đột Nga - Ukraine
leo thang căng thẳng. Hơn bao giờ hết, đó là yếu tố khiến cuộc xung đột trở nên
khó đoán định. Tuy nhiên, ngày 27/2/2020, việc Ukraine đồng ý tham gia đàm phán với Nga
tại Belarus và các vòng đàm phán tiếp theo, đã dấy lên tia hy vọng có thể sớm
chấm dứt chiến dịch quân sự của Nga đang diễn ra căng thẳng trên đất nước
này./.
PGS. TS. Nguyễn Anh Tuấn
Nguyên Đại sứ Việt Nam
tại Ukraine kiêm nhiệm tại Moldova
(2017 - 2020)