Bài 2: (Loạt bài: KIÊN ĐỊNH NGUYÊN TẮC TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH TRONG ĐẢNG) Bài học về sự từ bỏ nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng
Sự sụp đổ của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết gây nên những tổn
thất nặng nề và trở thành bài học đắt giá trong công tác xây dựng đảng của
phong trào Cộng sản thế giới và Việt Nam. Một trong những nguyên nhân sâu xa,
chính là sự buông lỏng, đi đến từ bỏ nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong
Đảng Cộng sản Liên Xô.
Sự kiện
Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã đã trở thành “thảm họa địa chính trị lớn nhất của
thế kỷ XX” (1). Một trong những nguyên nhân chủ yếu được chỉ ra, đó là Đảng
Cộng sản Liên Xô đã coi nhẹ công tác xây dựng đảng, không xác lập đúng đắn sự
lãnh đạo của mình. Trong đó, mấu chốt nhất là việc buông lỏng, đi đến từ bỏ
nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Đây là nguyên nhân làm cho Đảng Cộng sản Liên
Xô từ một đảng chính trị hùng mạnh, dần trở thành một khối bàng quan, lỏng lẻo
và tê liệt sức chiến đấu. Điều đó cho thấy, mọi sự chủ quan, dễ dãi trong thực
hiện nguyên tắc sinh hoạt đảng đều sẽ dẫn tới sự tan rã, cho dù đảng đó có vị
thế, vai trò và tầm cỡ tới đâu.
Thực
tiễn lịch sử ghi nhận, từ năm 1952 Đảng Cộng sản Liên Xô đã xuất hiện các biểu
hiện buông lỏng nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Đoàn Chủ tịch Đại hội XIX
gồm 25 người, nhưng gần như mọi quyết định đều do Stalin cùng một, hai người định
đoạt. Tình trạng cá nhân quyết định thay tập thể cũng diễn ra ở tổ chức đảng
cấp dưới, bất chấp vai trò của đông đảo đảng viên và quần chúng. Các góp ý
không được coi trọng, thậm chí bị trù dập đã làm cho cán bộ, đảng viên thờ ơ
trước những vấn đề của Đảng, không còn nhiệt huyết với công tác phê bình.
Đến
thời N. Khrushchev, cùng với phát động trào lưu xét lại lịch sử, ông ta mở
chiến dịch công kích cá nhân Stalin dưới hình thức phê phán giai đoạn xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô do Stalin lãnh đạo. Sự biến tướng phê bình này đã
vấp phải sự phản đối của các đảng viên, các tổ chức trong Đảng về nguy cơ tiềm
tàng của nó. Tuy nhiên, trong khí thế của trào lưu xét lại, sự phản kháng này
trở nên yếu ớt và không đủ mạnh để ngăn Khrushchev dấn bước với những cải cách
sai lầm tiếp theo. Đặc biệt, dưới khẩu hiệu “nhà nước toàn dân”, “đảng toàn
dân”, chương trình cải cách của Khrushchev đã vô tình hạ thấp vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Liên Xô. Chính điều đó đã tạo cho phương Tây cơ hội tiến hành
một cuộc chiến tranh tư tưởng chống phá chủ nghĩa xã hội và Đảng Cộng sản Liên
Xô, tạo tiền đề cho cái gọi là “cải tổ 2.0” của M.Gorbachev sau này.

Người dân Litva (nước thành viên của Liên Xô) tụ tập ở thủ đô Vilnius vào ngày 12/1/1990 để đòi tách khỏi Liên Xô. Litva là nước cộng hòa Xô viết đầu tiên tuyên bố độc lập. Ảnh: Getty.
Phê
bình là vũ khí đấu tranh làm trong sạch Đảng. Nhưng khi nắm quyền, lợi dụng
những sai sót trong bộ máy, Gorbachev ra sức phanh phui và phóng đại những tiêu
cực trong Đảng, làm lý do để thẳng tay thay thế những cán bộ dám phê phán cái
gọi là “cải tổ” - một kiểu dân chủ trá hình. Bị ru ngủ bởi luận điệu đổi mới để
phá bỏ lề lối cũ, tư duy cũ, cách làm cũ, nhiều đảng viên và tổ chức đảng không
còn mặn mà với những nguyên tắc sinh hoạt đảng vốn mang tính hành chính. Mặc
định các quyết sách của tổ chức đảng đều do người đứng đầu định đoạt. Do đó,
thói quen tự phê bình và phê bình lâu dần bị mai một, các đảng viên không còn
quan tâm đến những nguy cơ của Đảng.
Đặc
biệt, nhiều phiên họp Bộ Chính trị, Gorbachev không cần thảo luận, tự đề ra ý
kiến rồi coi đó là chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Hơn thế, bất chấp ý kiến trong
và ngoài Đảng, Gorbachev tự ý bổ sung 8 người vào các vị trí trong Bộ Chính trị
và Ban Bí thư; cách chức, thay thế hơn 20 bộ trưởng và hàng chục lãnh đạo cấp
bộ. Năm 1989, Gorbachev tự quyết định đưa 115 Ủy viên Trung ương ra khỏi Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (2)... mà không thông qua ý kiến lãnh đạo tập thể.
Tất cả các việc làm vô nguyên tắc, vi phạm Điều lệ Đảng đều không gặp sự phê
phán, phản bác của các Ủy viên Trung ương hay Ủy viên Bộ Chính trị. Dùng quyền
uy cá nhân để gạt bỏ ý kiến dân chủ, bức hại những người bất đồng ý kiến trong
Đảng, Gorbachev đã tước đoạt vũ khí chiến đấu quan trọng nhất của đảng viên và
tổ chức đảng, gây ra sự hỗn loạn chưa từng có trong đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền,
quân đội Liên Xô, làm tổn hại to lớn uy tín của Đảng Cộng sản Liên Xô, khiến
đông đảo cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân không tin vào Đảng, lạnh nhạt
với cả các chỉ thị, mệnh lệnh của Đảng. Điều tất yếu phải đến, Đảng Cộng sản
Liên Xô đã đánh mất địa vị cầm quyền sau 74 năm chỉ bằng một tuyên bố cá nhân
của Gorbachev, vì một lẽ đơn giản: gần 20 triệu đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô
đã “buông xuôi” và không có bất cứ một hành động để bảo vệ Đảng của mình.
Cần
nhận thấy rằng, Đảng Cộng sản Liên Xô mất quyền lãnh đạo, Liên Xô tan rã mà
không thông qua một cuộc chiến tranh nào với chủ nghĩa đế quốc. Có thể thấy, sự
sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đều có một nguyên
nhân chung nhất, cơ bản nhất và là gốc rễ xuất phát từ chính “kẻ thù nội tại”.
Đó là sự vi phạm trắng trợn các nguyên tắc sinh hoạt đảng và sự từ bỏ nguyên
tắc tự phê bình và phê bình - nói cách khác là từ bỏ vũ khí chiến đấu. Điều đó
làm cho Đảng Cộng sản Liên Xô không còn là một tổ chức thống nhất về ý chí và
hành động; không còn là một tổ chức chiến đấu cho lợi ích của giai cấp mình và
cũng không thể tự bảo vệ mình. Đây là bài học kinh nghiệm đắt giá cho các Đảng
Cộng sản nói chung và Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng trong vấn đề phải kiên
định nguyên tắc tự phê bình và phê bình./.
Theo Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam